Blog Post

SLR Magic 35mm f/1.2 và 75mm f/1.4 - Battle với ống kính Samyang

Jul 20, 2017

Đây là bài viết tiếp theo của Vsion về đánh giá chất lượng các ống kính SLR Magic ngàm E dành cho máy không gương lật của Sony. Các bạn có thể tham khảo bài đánh giá trước về ống kính SLR Magic 25mm f/1.4 CINE của Vsion để hiểu hơn về một số nội dung được đề cập tới trong bài viết này.

Tiếp theo 25mm f/1.4, mình xin giới thiệu tới các bạn 2 ống kính khác trong series ống kính lấy nét tay mới của SLR Magic (Hong Kong): 35mm f/1.2 CINE và 75mm f/1.4 CINE. Trong series này còn có ống kính SLR Magic 50mm f/1.1 CINE, tuy nhiên Vsion chưa có được ống kính này để có đánh giá. Hai ống kính 35mm và 75mm này được công ty gửi tới cho mình dùng thử trong vòng 1 tháng sau khi có những phản hồi tích cực về bài đánh giá trước với ống kính 25mm f/1.4.

Lần này, không những mình sẽ đánh giá kỹ hơn hai ống kính mà còn có một phần rất quan trọng, đó là so sánh trực tiếp ở tất cả các tiêu chí hai ống kính này với 2 ống kính có tiêu cự tương đương hoặc gần của Samyang / Rokinon (Hàn Quốc) là ống kính 35mm f/1.4 và 85mm f/1.4. Hai ống kính Samyang này đều có bản cine với thiết kế vỏ thay đổi để phù hợp với sử dụng trong quay phim: vòng lấy nét bánh răng, vòng khẩu bánh răng đã loại bỏ tiếng click (declicked) và kiểm soát chất lượng tốt hơn, tuy nhiên dù là phiên bản thường hay phiên bản cine, các cặp ống kính này đều có chung thiết kế quang học, nên về cơ bản là có chất lượng quang học giống hệt nhau. Các ống kính cine của SLR Magic thì không có phiên bản thường mà đều là ống kính cine và nhắm tới thị trường thiết bị quay phim vốn có yêu cầu cao hơn thị trường ống kính nhiếp ảnh. Một điểm quan trọng là các ống kính mới này của SLR Magic đều có thiết kế chuyên biệt cho hệ thống máy không gương lật ngàm E của Sony, tận dụng khoảng cách buồng tối (flange distance) nhỏ để giảm kích thước của hệ thấu kính. Chính vì thế, một lợi thế lớn của các ống kính này là kích thước rất gọn so với các ống kính Samyang vốn được thiết kế để dùng chủ yếu cho các máy DSLR có khoảng cách buồng tối lớn. Như ở hình đầu trang, các bạn có thể thấy SLR Magic 35mm f/1.2 (cặp ống kính bên trái) chỉ bằng nửa kích thước ống kính Samyang 35mm f/1.4, mặc dù nó còn có khẩu độ lớn hơn khoảng 1/3 stop.

Các ống kính MF của Samyang đang ngày càng trở nên thịnh hành hơn, đặc biệt với người dùng mirrorless do có hỗ trợ focus peaking hay phóng đại vùng chọn để lấy nét rất đơn giản mà mức giá lại vừa túi tiền với nhiều người. Tuy nhiên Samyang cũng có một số vấn đề như kích thước lớn hay khả năng chống flare kém và chất lượng chế tạo không thực sự đồng đều (ống kính dễ gặp lỗi do chất lượng chế tạo kém). Chính vì thế, việc so sánh các sản phẩm này của SLR Magic với Samyang có thể cung cấp những cơ sở mới cho người dùng có được lựa chọn phù hợp với khả năng và túi tiền.

1. CÁC THÔNG SỐ KỸ THUẬT VÀ MỨC ĐỘ THUẬN TIỆN KHI SỬ DỤNG
SLR Magic 35mm f/1.2 CINE Samyang 35mm f/1.4 ED AS UMC
SLR Magic 75mm f/1.4 CINE Samyang 85mm f/1.4 AS IF UMC
Nhà sản xuất SLR Magic Samyang SLR Magic Samyang
Tiêu cự 35mm 35mm 75mm 85mm
Góc nhìn ống kính 63,1° (full frame) 33,2° (full frame) 28,3° (full frame)
Ngàm ống kính Sony ngàm E Sony ngàm A Sony ngàm E Canon ngàm EF
Loại máy ảnh Full frame / APS-C
Loại ống kính Ống kính cine
AF/MF Manual focus (lấy nét bằng tay)
Khẩu độ lớn nhất f/1.2 f/1.4
Khẩu độ nhỏ nhất f/16 f/22 f/16 f/22
Vòng khẩu độ Dạng bánh răng, không có tiếng Vòng nhựa, có tiếng click khi chuyển khẩu Dạng bánh răng, không có tiếng Vòng nhựa, có tiếng click khi chuyển khẩu
Vòng lấy nét Dạng bánh răng Vòng cao su hoặc vòng bánh răng với bản cine Dạng bánh răng Vòng cao su hoặc vòng bánh răng với bản cine
Công thức thấu kính 8 nhóm / 9 thấu kính 10 nhóm / 12 thấu kính 6 nhóm / 6 thấu kính 7 nhóm / 9 thấu kính
Thấu kính đặc biệt Không có 1 thấu kính phi cầu Không có 1 thấu kính phi cầu
Lớp tráng phủ (coating) Multi-coated Samyang UMC Multi-coated Samyang UMC
Số lá khẩu 13 lá khẩu 8 lá khẩu 13 lá khẩu 8 lá khẩu
Khoảng cách lấy nét gần nhất 30 cm 30 cm 70 cm 1 m
Chiều dài ống kính (không tính ngàm chuyển) 77,4 mm 111 mm 78,68 mm 74,7 mm
Đường kính lớn nhất 66 mm 83 mm 66 mm 78 mm
Khối lượng ống kính 535 g 700 g 455 g 540 g
Đường kính filter 52 mm 77 mm 52 mm 72 mm
Giá $499 $399
$479 (bản cine)
$499 $269
$279 (bản cine)

Trước khi vào các nội dung so sánh ống kính SLR Magic và Samyang, mình sẽ nói nhanh về thiết kế và mức độ thuận tiện khi sử dụng hai ống kính SLR Magic 35mm f/1.2 và 75mm f/1.4 này. Một điểm quan trọng trong thiết kế của các ống kính trong series này của SLR Magic là kích thước nhỏ gọn đồng đều để có thể dùng tốt với gimbal khi quay phim, tuy nhiên nó cũng có nghĩa là sử dụng các ống kính này cho nhiếp ảnh cũng có lợi thế ở mức độ gọn của ống kính, giúp bạn dễ mang theo người và dễ thao tác khi chụp hơn. Hiện nay, ống SLR Magic 35mm f/1.2 chỉ đắt hơn giá niêm yết bản cine của Samyang 35mm (T1.5) khoảng $20 nên ít nhất về mặt giá thành và kích thước, ống kính SLR Magic này đã có vẻ rất tiềm năng rồi.

Hai ống kính 35mm và 75mm này được thiết kế gần như y sì đúc ống kính 25mm f/1.4 mình đã đánh giá, chỉ khác một chút về chiều cao ống. Trong quá trình thử nghiệm ba ống kính này, nếu không nhìn kỹ thì mình rất dễ bị nhầm chúng với nhau, vì cầm trong tay gần như chẳng khác gì cả (ống 50mm f/1.1 CINE cũng được thiết kế tương tự). Các ống kính này đều có chất lượng chế tạo (build) rất chắc chắn, gọn, khá nặng (do hoàn toàn bằng kim loại), đều dùng 2 vòng khẩu và vòng lấy nét dạng bánh răng và đều dùng filter 52 mm. Đây là đặc điểm giống các dòng ống kính như các ống Sony FE bình dân (filter 49 mm) hay Zeiss Batis (filter 67 mm) và rất hữu ích khi bạn sử dụng và thay nhiều ống kính một lúc, hay có một bộ filter đắt tiền muốn dùng chung cho tất cả ống kính. Tất cả các ống kính SLR Magic mới đều sở hữu bộ khẩu 13 lá để đảm bảo cho bokeh dạng tròn từ khẩu mở lớn nhất tới nhỏ nhất. Đây cũng là đặc điểm thiết kế SLR Magic lắng nghe từ yêu cầu của giới quay phim và nó thực sự rất có hiệu quả nếu bạn muốn có bokeh đẹp.

Việc sử dụng các ống kính này đều khá dễ dàng, tuy nhiên nếu bạn chưa quen với ống cine thì có thể thấy tay hơi đau và vòng lấy nét hơi nặng, nhưng đây là đặc điểm bình thường của ống kính loại này để đảm bảo lấy nét chính xác. Nếu bạn dùng các ống kính này trên máy Sony E có chống rung thì việc lấy nét cũng trở nên đơn giản hơn do ống ngắm hay hình ảnh trên LCD đều được chống rung hiệu quả. Một điểm đặc trưng nữa của các ống kính SLR Magic này là mức độ căn chỉnh thấu kính rất chính xác để đạt tới chính xác điểm vô cực khi vòng lấy nét dừng lại (điểm dừng cứng - hard stop. Cả 3 ống SLR Magic mình dùng đều có góc quay vòng lấy nét (focus throw) khoảng 120 độ từ điểm nét gần nhất tới vô cực. Nếu để ý bạn sẽ thấy là khi vòng lấy nét dừng lại tại điểm vô cực thì sẽ có một lỗ nhỏ nằm trên vòng lấy nét đúng vị trí đó. Đây có thể là con ốc dùng để giới hạn vị trí vô cực và có thể dùng để cân lại vòng lấy nét của ống kính khi có sai hỏng xảy ra. Lý do chính hiện nay nhiều nhà sản xuất không còn dùng điểm hard stop vô cực nữa là yếu tố giãn nở nhiệt có thể làm mất khả năng lấy nét ở xa vô cực của ống kính, vì vậy ống kính có hard stop ở vô cực như SLR Magic cũng khó mà nói được liệu vị trí vô cực có bị mất không khi hoạt động dưới trời nắng nóng...

Nếu bạn chưa thấy kích thước ống kính giảm đáng kể thì hãy tưởng tượng bạn có thể thay 3 ống kính DSLR kích cỡ lớn bằng 3 ống kính SLR Magic 25/1.4, 35/1.2, 75/1.4 thì túi máy ảnh của bạn sẽ thừa ra khá nhiều chỗ để dùng cho các trang thiết bị khác khi bạn di chuyển xa. Mặc dù kích thước nhỏ gọn là một trong những yếu tố quan trọng nhất để người dùng quyết định loại ống kính nhưng chất lượng ống kính cũng cần phải ở mức chấp nhận được. Thế nên hãy xem việc thu nhỏ kích cỡ hệ quang học có gây ra những ảnh hưởng gì lên chất lượng ống kính. Lưu ý là trong bài đánh giá này, ống kính Samyang 35mm f/1.4 có ngàm Sony A nên được dùng qua ngàm chuyển Minolta AF - Sony E, còn ống kính Samyang 85mm f/1.4 có ngàm Canon EF nên được dùng qua ngàm chuyển Canon EF - Sony E. Đây là ống kính 85mm f/1.4 phiên bản thứ hai của Samyang (viền đỏ) đã được nâng cấp chủ yếu về lớp coating nên có khả năng chống flare và sắc sai cải thiện hơn.

2. CHẤT LƯỢNG QUANG HỌC VÀ SO SÁNH
2.1. Đặc trưng tái tạo màu của ống kính

Như mình có nhắc tới trong bài đánh giá SLR Magic 25mm f/1.4 CINE, tông màu tái tạo bởi ống kính hoàn toàn có thể thay đổi phụ thuộc vào tông màu gốc của cảnh chụp nếu chúng ta dùng chế độ cân bằng trắng tự động (AWB). Vì thế, để thấy rõ sự khác biệt trong khả năng tái tạo màu của các ống kính trong bài so sánh này, mình dùng chế độ AWB với tấm hình thứ nhất sử dụng 1 ống kính SLR Magic và cố định giá trị nhiệt độ màu cùng tint giống tấm hình đầu tiên và dùng các giá trị này cho 3 tấm ảnh so sánh còn lại (thay đổi giá trị nhiệt màu và tint trong CameraRaw).

Ống kính 35/1.2 tái tạo màu lạnh hơn Samyang 35/1.4 khá rõ (vốn khá "nổi tiếng" với tông màu ấm, vàng. Đặc trưng màu này không thay đổi khi mình giảm khẩu ống kính. Tuy nhiên nhìn hình trên (mở khẩu lớn nhất) và hình dưới, các bạn có thể thấy sự sai khác giữa khẩu lớn và khẩu nhỏ: màu ở trên tươi và độ tương phản tốt hơn ở dưới.

Trong trường hợp của SLR Magic 75/1.4 và Samyang 85/1.4 thì màu ống kính SLR Magic có phần ấm hơn Samyang. Có một điều thú vị là ở khẩu lớn nhất, ống kính 75/1.4 tạo màu ấm hơn so với lúc hạ khẩu, còn 85/1.4 thì ngược lại, khi hạ khẩu thì màu có lạnh đi. Chính vì thế, ở khẩu độ nhỏ hai ống kính này gần nhau về tông màu hơn.

2.2. Khả năng truyền sáng (T-stop)

Tương tự như các ống kính khác trong series này, mặc dù là ống kính cine song SLR Magic không hề dùng T-stop để biểu thị khả năng truyền sáng của ống kính. Như ở bài đánh giá trước, mình đã ước lượng T-stop của ống kính 25/1.4 là khoảng T1.6, còn lần này mình sẽ xác định T-stop bằng cách so sánh tốc độ màn trập của 2 ống kính trong từng cặp để chụp ra ảnh sáng tương đương ở cùng khẩu độ, sử dụng chế độ ưu tiên khẩu (Aperture priority). Hai cặp ống kính được so sánh trong hai lần tách biệt nên mức độ sáng của môi trường khác nhau nên tốc độ màn trập trong hai trường hợp cũng khác nhau.

Với cặp 35mm, mặc dù là ống kính f/1.2 nhưng SLR Magic luôn nhiều thời gian hơn để thu được ảnh sáng tương đương Samyang (hình dưới). Ở khẩu f/1.2, tốc độ màn trập bằng đúng ống kính Samyang 35/1.4 ở f/1.4. Như chúng ta biết là phiên bản cine của ống Samyang có T-stop là T1.5 nên mình có thể xác định ống SLR Magic 35/1.2 thực tế là T1.5. Khi giảm khẩu từ f/1.2 xuống f/1.4, thực tế chúng ta chỉ giảm 1/3 stop nên nếu các bạn đang để máy ảnh ở mức thay đổi 1/2 EV thì có thể bạn sẽ không thấy sai khác về tốc độ màn trập ở hai khẩu này. Các bạn cần thay đổi bước EV sang 1/3, tuy nhiên chỉ khi ánh sáng không mạnh bạn mới có thể nhận thấy sai khác vì thực sự nó khá là nhỏ và yêu cầu máy phải nhạy sáng tốt.

Trong trường hợp cặp 75-85mm, tốc độ màn trập của ống 75mm luôn bằng ống 85mm ở tất cả mọi khẩu nên T-stop của ống 75mm cũng là T1.5 tương tự như bản cine của Samyang 85/1.4.

2.3. Khoảng cách lấy nét gần nhất và tỷ lệ phóng đại tối đa

Mặc dù chúng ta đã biết tỷ lệ phóng đại lớn nhất của hai ống Samyang do nhà sản xuất công bố trong danh sách thông số kỹ thuật, nhưng SLR Magic không công bố tỷ lệ này với các ống kính của hãng. Bằng cách so sánh kích thước mẫu trong ảnh chụp bằng 4 ống kính ở khoảng cách lấy nét gần nhất, mình có thể ước lượng được tỷ lệ phóng đại lớn nhất của chúng. SLR Magic 35/1.2 mặc dù có thể lấy nét gần như Samyang 35/1.4, tuy nhiên do thiết kế dài của ống kính Samyang, thấu kính trước có thể tiến tới sát mẫu, gần hơn nhiều SLR Magic. Trong trường hợp của SLR Magic 75mm, do khoảng cách lấy nét gần nhất nhỏ hơn Samyang 85mm tận 30 cm, nhưng bù lại tiêu cự ngắn hơn Samyang 10mm nên ảnh chụp bằng 75/1.4 không phóng đại được hơn nhiều lắm.

Dưới đây là tỷ lệ phóng đại mình ước tính theo hình chụp. Lưu ý rằng tỷ lệ này là đặc tính vật lý của ống kính và nó không thay đổi theo cảm biến bạn dùng, mặc dù với cảm biến nhỏ hơn bạn có thể lấy được nhiều chi tiết hơn (zoom nhiều hơn).


  • SLR Magic 35mm f/1.2: 1:7.3
  • Samyang 35mm f/1.4: 1:4.9
  • SLR Magic 75mm f/1.4: 1:7.6
  • Samyang 85mm f/1.4: 1:9.5

2.4. Đánh giá độ nét

Trong mục này, mình chụp cùng một cảnh với lần lượt 2 ống kính trong mỗi cặp, sử dụng Sony A7ii trên tripod và không dùng filter hay hood. Tất cả ảnh được chụp RAW và không sử dụng bất kỳ chức năng tăng độ nét hay thay đổi màu nào. Ảnh đọc bằng CameraRaw cũng được kéo tăng độ nét (sharpen) về 0 và không sử dụng chức năng chữa lỗi ống kính. Trong trường hợp của cặp 75-85mm, do tiêu cự khác nhau nên khi chụp bằng ống 75mm mình phải đưa tripod lại gần vật hơn (trừ khi chụp ở khoảng cách xa). Với mỗi cặp ống kính, mình chụp 2 tấm ở gần khoảng cách lấy nét tối thiểu và 1 tấm ở rất xa (gần hoặc đúng vô cực), sau đó sử dụng phần trung tâm và viền của 2 tấm ở khoảng cách gần, trung tâm và viền của tấm ở khoảng cách xa để so sánh độ nét khi hạ dần khẩu độ ống kính. Ảnh được chụp ở chế độ ưu tiên khẩu độ (Aperture priority) để đảm bảo cho độ sáng giống nhau giữa các tấm ảnh.

2.4.1. SLR Magic 35mm f/1.2 - Samyang 35mm f/1.4

Đầu tiên, mình chụp 1 tấm ảnh ở khoảng cách gần (khoảng 40cm) bằng 2 ống kính SLR Magic 35/1.2 và Samyang 35/1.4. Các bạn có thể nhận ra khu vực mình crop để so sánh bằng hình vuông màu xanh trên hình. Hình đầu tiên mình dùng để so sánh trung tâm hình, còn hình thứ hai để so sánh nét viền.

Ở phần trung tâm của ảnh, cả hai ống kính 35/1.2 và 35/1.4 đều hơi soft ở khẩu lớn nhất (mức độ tương đương) và SLR Magic luôn nhỉnh hơn Samyang một chút. Độ nét cao nhất của cả hai ống kính nằm trong khoảng f/5.6 tới f/11. Tại f/16, ống 35/1.2 bị soft nhẹ do nhiễu xạ nhưng vẫn còn ở mức dùng được. Samyang cũng bị nhiễu xạ từ f/11 nhưng mức độ bị nặng hơn một chút và ảnh tại f/22 khá soft.

Ở rìa hình, mức độ soft của hai ống kính nặng hơn phần trung tâm và cho tới f/2 thì SLR Magic có phần rìa kém hơn Samyang. Tuy nhiên từ f/2.8, SLR Magic nhanh chóng nét hơn Samyang và đạt độ nét cao nhất cũng trong khoảng f/5.6-f/11. Ở khu vực này, nhiễu xạ cũng làm ảnh giảm chất lượng khi hạ khẩu nhỏ hơn f/11, khá giống phần tâm hình.

Để có thêm đánh giá cho chuẩn mức độ nét của SLR Magic, mình có làm một so sánh tương tự nhưng là với 4 ống kính. Ngoài 2 ống kính 35mm chính trong bài, mình dùng thêm Samyang AF (ngàm E) 35mm f/2.8 và Sigma Art 35mm f/1.4 (ngàm Canon EF và dùng qua ngàm Viltrox II). Khi so sánh phần tâm hình, các bạn sẽ thấy là độ nét của SLR Magic 35/1.2 ở f/2.8 chỉ thua Sigma Art, trong khi hai ống kính Samyang có độ nét khá giống nhau (ống kính Samyang AF có nhỉnh hơn một chút). Hiện nay Sigma Art 35mm f/1.4 là một trong những ống 35mm có độ nét cao nhất trên thị trường nên với chất lượng này, chúng ta hoàn toàn có thể tự tin vào khả năng của ống SLR Magic khi giảm khẩu xuống tối thiểu f/2.8.

Tiếp theo, hãy xem hai ống kính này có độ nét như thế nào khi lấy nét ở khoảng cách xa. Hai hình vuông màu xanh trong hình dưới đây đánh dấu hai vị trí mình dùng để so sánh.

Từ khoảng cách này, độ nét trung tâm ống kính 35/1.2 thậm chí còn hơn 35/1.4 một chút ngay từ khẩu độ lớn nhất và luôn nét hơn cho tới f/2.8 và hạ khẩu thêm thì hai ống này có độ nét tương đương nhau. Độ nét trung tâm của hai ống kính đạt mức cao nhất trong khoảng f/5.6-f/11, tương tự như khi lấy nét gần. Còn về độ nét ở viền, ống 35/1.2 có kém hơn 35/1.4 một chút ở khẩu độ lớn và khi giảm khẩu xuống f/4, f/5.6 hoặc thấp hơn thì độ nét viền hai ống kính này rất giống nhau. Như vậy, đối với cả hai ống kính, nếu bạn muốn độ nét viền và trung tâm gần nhau nhất, bạn cần hạ khẩu độ xuống tối thiểu là f/5.6. Nhìn chung về hiệu quả hình ảnh thì SLR Magic 35mm có phần tốt hơn đối thủ Samyang.

2.4.2. SLR Magic 75mm f/1.4 - Samyang 85mm f/1.4

Tương tự như cặp ống kính ở trên, hai ống kính 75/1.4 và 85/1.4 cũng được so sánh độ nét lần lượt ở khoảng cách lấy nét gần và xa. Các ô vuông màu đỏ trong hình dùng để đánh dấu vị trí khu vực ảnh dùng trong so sánh.

Ở khoảng lấy nét gần, 75/1.4 và 85/1.4 có độ nét tâm hình rất giống nhau. Cả hai ống đều hơi soft nhẹ ở khẩu đô lớn nhất nhưng trở nên sắc nét nhanh khi hạ khẩu xuống. Trong suốt quá trình mình đánh giá ống kính, phần tâm hình chụp bằng SLR Magic 75/1.4 nét hơn 85/1.4 một chút trong khoảng f/4 tới f/16. Tuy nhiên, ống SLR Magic này có độ nét ở 1/3 bên trái và bên phải hình (phần rìa và giữa rìa - tâm hình) khá kém cho tới f/2 hoặc f/2.8 mới chấp nhận được. Ngoài ra, như ở trong hình so sánh các bạn cũng thấy là từ f/1.4 tới f/2 thì cả 2 ống kính này đều có viền tím nhẹ ở những chi tiết có độ tương phản cao.

Khi lấy nét ở xa (gần vô cực), độ nét của hai ống kính này đều không tốt ở khẩu lớn. Bạn phải hạ khẩu độ xuống f/2.8 hoặc thấp hơn để có được chi tiết nét. Ở vùng rìa hình, bạn có thể nhận ra rất dễ dàng là ống SLR Magic 75/1.4 bị soft, và phải hạ xuống f/11 mới ở mức chấp nhận được. Trong khi đó, độ nét rìa của Samyang 85/1.4 thì hoàn toàn dùng được ngay từ khẩu lớn nhất. Một phần để giải thích điều này là thực tế vùng rìa của ống kính này không cùng mặt phẳng nét với điểm ở tâm hình, còn ngoài ra là khả năng phân giải kém ở rìa và góc hình của ống kính. Trong thực tế sử dụng, mình thấy là với SLR Magic 75/1.4, bạn cần hạ khẩu độ xuống tối thiểu là f/2 trước khi muốn chụp người hoặc vật mà lệch ra khỏi chính giữa hình để đảm bảo cho độ nét có thể dùng được.


2.5. Độ méo hình

Bằng cách chụp các đường thẳng song song nằm ngang và dọc, chúng ta có thể thấy mức độ méo hình của ống kính. SLR Magic 35/1.2 có độ méo thùng (barrel distortion) nhẹ hơn Samyang một chút. Mức méo hình này không nặng và hoàn toàn có thể chữa được bằng profile của chính Samyang 35mm f/1.4 trong CameraRaw hoặc filter Camera Raw trong Photoshop (như ở hình dưới).

Đối với cặp ống kính 75mm - 85mm thì ống kính SLR Magic kiểm soát độ méo hình tốt hơn hẳn, gần như méo không đáng kể, trong khi Samyang 85/1.4 có mức méo thùng rất nhẹ ở cả đường ngang và đường dọc. Tuy nhiên với các ống kính tele chụp chân dung thì mức độ méo này gần như không ảnh hưởng gì tới ảnh.

2.6. Mức độ tối góc

Tối góc này là hiện tượng ánh sáng đi qua khu vực rìa và góc hình bị giảm khả năng truyền dẫn nên ảnh tối hơn khu vực tâm hình chứ không phải hiện tượng tối góc do hình ảnh tái tạo qua ống kính không bao phủ đủ cảm biến như lúc dùng ống kính crop trên máy ảnh full frame. Ở hình dưới các bạn có thể thấy mức độ tối hình của 4 ống kính ở các khẩu độ khác nhau. Ở khẩu độ lớn nhất, SLR Magic 35/1.2 có mức tối góc khá rõ (tối hơn Samyang 35/1.4 một chút) và chỉ giảm một chút khi hạ khẩu, trong khi Samyang 35/1.4 có thể loại bỏ gần hết tối góc từ f/2.8. Cách duy nhất để loại bỏ hoàn toàn hiện tượng tối góc của SLR Magic 35mm f/1.2 là khử tối góc khi xử lý hậu kỳ, bằng cách dùng profile của Samyang 35mm f/1.4.

Mức độ tối góc của hai ống kính 75mm và 85mm ít hơn nhiều so với hai ống kính 35mm và biến mất từ f/2 (với Samyang 85/1.4) hoặc f/2.8 (với SLR Magic 75/1.4). Thậm chí khi dùng để chụp chân dung, mình phải thêm một ít tối góc để người xem tập trung hơn vào đối tượng cần nhấn mạnh.

2.7. Độ cong trường ảnh, lệch thấu kính và hiện tượng dịch chuyển điểm focus

Giống như SLR Magic 25/1.4, mình có một phương pháp để kiểm tra nhanh mức độ cong trường nét (field curvature) của ống kính ở khẩu độ lớn và khoảng cách lấy nét gần. Bằng cách chụp một đường thẳng nằm ngang trên mặt đất khi máy ở góc rất thấp so với mặt đất và có chiều ngang khung hình song song với đường thẳng, chúng ta có thể thấy hình dạng của khoảng DOF với ranh giới từ chi tiết nét sang chi tiết mờ. Mức độ méo trường có thể được xác định bằng độ cong của khoảng DOF này và thông thường nó sẽ cong đều về phía sau ở phần giữa. Như hình minh họa ở dưới, các bạn có thể thấy Samyang 35/1.4 có trường nét rất thẳng, trong khi SLR Magic 35/1.2 có méo trường nhẹ. Điều này có nghĩa là ở khẩu độ lớn với SLR Magic 35/1.2, bạn sẽ không thể lấy nét cùng lúc 2 điểm nằm trên cùng mặt phẳng song song với cảm biến mà lại nằm ở tâm và rìa hình. Tuy nhiên hiện tượng méo trường này có giảm khi chúng ta hạ khẩu và chụp ra xa. Vì hiện tượng méo trường này nên phần rìa ảnh của SLR Magic ở khẩu độ lớn soft hơn Samyang một chút, nhưng khi hạ khẩu xuống thì thậm chí còn nét hơn.


Tuy nhiên với trường hợp của SLR Magic 75mm f/1.4 và Samyang 85mm f/1.4, các bạn để ý sẽ thấy là khoảng DOF không những hơi cong mà nó còn bị lệch sang bên phải. Đây không phải là hiện tượng méo trường nét bình thường mà là biểu hiện của lệch thấu kính (decentering) làm lệch trường nét về một phía. Hiện tượng này do lỗi trong quá trình sản xuất hoặc do sự di chuyển thấu kính trong khi vận chuyển và làm cho mức độ lệch nét giữa hai nửa của hình không giống nhau. Mặc dù vậy, hiện tượng này không có ảnh hưởng mấy tới ống kính chân dung và cũng có thể vì vậy khâu này có thể không bị kiểm soát chất lượng chặt ở đầu ra. Hệ quả duy nhất với chụp chân dung là đôi lúc chụp nhiều hơn một người, mặc dù họ đứng thẳng hàng nhưng vẫn có người mặt nét có người không. Ở tiêu chí này, hai ống 75/1.4 và 85/1.4 rất giống nhau. Đây cũng có thể là một yếu tố khiến độ nét rìa ở đánh giá trên của SLR Magic 75/1.4 rất kém, bên cạnh khả năng phân giải thấp ở rìa của ống kính.

2.8. Khả năng chống lóa và bóng sáng (flare and ghost)

Mặc dù tham gia vào thị trường ống kính muộn hơn Samyang, mình rất ngạc nhiên khi phát hiện ra ống kính SLR Magic có khả năng chống lóa tốt hơn khá rõ, tuy nhiên lớp tráng phủ này hãng thậm chí còn chưa đặt tên. Khi có nguồn sáng mạnh như mặt trời ở phía sau vật thể thì ống SLR Magic có thể giữ được độ tương phản và màu sắc cao ở khu vực gần nguồn sáng, trong khi ống kính Samyang bị lóa khá rõ, chi tiết và màu sắc ở gần nguồn sáng bị ám màu. Bình thường khi mình dùng cả 3 ống kính SLR Magic 25mm, 35mm, 75mm thì việc chụp ngược sáng thường không phải băn khoăn. Trong ba ống kính thì 75/1.4 có khả năng chống lóa kém hơn 2 ống kính góc rộng một chút. Mặc dù vậy, khả năng chống ghost (những đốm màu xuất hiện khi chụp ngược sáng) của các ống kính này không cao, hay nói đúng hơn là vì được thiết kế cho quay phim nên hiện tượng ghost có thể tạo các hiệu ứng thú vị cho cảnh quay. Hiện tượng này đôi lúc phù hợp với ảnh chụp nhưng cũng có những lúc nó làm người xem mất tập trung nên không được ưa thích.


2.9. Mức độ sắc sai

Trong số 4 ống kính thì cặp 75mm-85mm kém hơn khá rõ trong khả năng kiểm soát viền tím / sắc sai ở khẩu độ lớn, trong khi đó khá khó để nhận ra được viền tím với ảnh chụp từ hai ống 35mm. Khi chụp thực tế, mình có thể nhận thấy một ít sắc sai ngang (lateral chromatic aberration) ở những chi tiết có độ tương phản cao (như khi chụp ngược sáng) khi chụp với ống 35mm ở f/2 hoặc khẩu độ lớn hơn, hay ống 75mm và 85mm ở f/2.8 hoặc khẩu độ lớn hơn.

Khi xét tới sắc sai dọc (longitudinal chromatic aberration hay LoCA), mình dùng lần lượt các ống kính này và chụp với khung cảnh bố trí với lá thiếc (có rất nhiều chi tiết tương phản cao) ở trước và sau điểm lấy nét để thấy sắc sai trước và sau mặt phẳng nét. Hiện tượng LoCA này sẽ tạo ra viền chi tiết màu đồng đều nhưng khác nhau phụ thuộc vị trí của chi tiết theo trục trước - sau của mặt phẳng nét (thông thường là màu tím ở một phía và xanh lá ở một phía). Hai ống kính tele cũng có LoCA rõ hơn hai ống kính 35mm. Hiện tượng này sẽ không còn gây chú ý nữa nếu chúng ta hạ khẩu hai ống kính 35mm xuống f/5.6 và hạ khẩu hai ống kính 75mm và 85mm xuống f/8 hoặc nhỏ hơn.

2.10. Đặc điểm bokeh

Nhờ có vòng khẩu gồm 13 lá khẩu nên bokeh của các ống kính SLR Magic luôn tròn (hoặc gần tròn hoàn hảo) ở mọi khẩu độ. Tuy nhiên, ống kính 75mm có hiện tượng mắt mèo khi bóng tròn bokeh nằm ở ngoài khu vực 1/3 giữa hình, trong khi ống 35/1.2 chỉ có một chút hiện tượng mắt mèo với bóng bokeh ở sát góc xa của hình. Hai ống kính Samyang cũng bị hiện tượng mắt mèo, trong đó ống 35mm xuất hiện bokeh mắt mèo từ ngay sát giữa hình, còn ống 85mm có bokeh mắt mèo xuất hiện ở sát phía rìa hơn là SLR Magic 75mm. Do thiết kế 8 lá khẩu thẳng nên hai ống Samyang sẽ có bokeh đa giác 8 cạnh khi chúng ta hạ khẩu. Đặc điểm này nhìn chung sẽ không bằng bokeh tròn ở mọi khẩu của các ống SLR Magic. Ngoài ra, nếu bạn để ý kỹ thì bóng bokeh của SLR Magic 35mm f/1.2 có viền sáng khá rõ, giống như Samyang 85mm f/1.4 (nhưng Samyang viền không rõ bằng SLR Magic) còn bokeh của hai ống kính còn lại đều nhìn mịn hơn.

Một đặc điểm bokeh của Samyang khiến mình không thích là hiện tượng vân hành khá dễ xuất hiện ở bóng bokeh khi kích cỡ bóng bokeh đủ lớn và đủ sáng. Hiện tượng này có thể do quá trình mài mặt kính phi cầu khi chế tạo gây ra.

Câu hỏi đặt ra là khẩu độ f/1.2 của SLR Magic 35/1.2 có đúng là f/1.2 không? Trong thực tế, nhiều hãng sản xuất ống kính làm tròn khẩu độ vì mục đích quảng cáo, nên khẩu độ thực tế có thể sai khác với con số hãng công bố. Trong trường hợp này, mình so sánh bokeh của ống kính ở khẩu f/1.2 và f/1.4 để tìm sai khác. Như ở trong hình dưới, các bạn sẽ thấy là khi hạ 1/3 stop từ f/1.2 xuống f/1.4, một chút chi tiết ở giữa hình bị thay đổi, bóng bokeh ở đây thay đổi một chút và hiện tượng tối góc có vẻ đỡ hơn. Cùng thí nghiệm so tốc độ màn trập ở trên, mình có thể khẳng định là khẩu độ thực sự của ống kính này nằm ở giữa khoảng f/1.4 và f/1.2 (có thể là f/1.3?).

2.11. Cầu sai

Chúng ta có thể đánh giá các ống kính này được thiết kế như thế nào để chữa lỗi cầu sai (spherical aberration) qua việc so sánh bóng bokeh ở trước và sau mặt phẳng lấy nét. Nếu bokeh đằng sau (back bokeh) có hình dạng rõ ràng hơn và có viền sáng, trong khi bóng bokeh ở đằng trước (front bokeh) mịn hơn và không có viền thì ống kính đã được chỉnh cầu sai quá (overcorrected). Ngược lại, khi bóng bokeh ở đằng sau lại mịn hơn bóng bokeh ở đằng trước thì chứng tỏ ống kính được chỉnh cầu sai chưa đạt (undercorrected). Trường hợp thứ ba là khi cả bóng bokeh trước và sau mặt phẳng nét mịn giống nhau thì chứng tỏ ống kính đó được sửa cầu sai ở mức độ vừa phải. Mức độ sửa cầu sai như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào người thiết kế muốn tập trung cho chi tiết (overcorrected) hay cho bokeh mịn (undercorrected).

Bằng cách so sánh bóng bokeh trước và bokeh sau, mình có thể xác định được là SLR Magic 35mm f/1.2 và Samyang 85mm f/1.4 được chỉnh quá để tăng độ nét và hy sinh một chút bokeh (với SLR Magic là rõ nhất), trong khi đó SLR Magic 75mm f/1.4 được chỉnh ở mức độ vừa phải còn Samyang 35mm f/1.4 chỉnh cầu sai chưa đạt (được thiết kế để có bokeh mịn). Chính vì thế, khi so sánh SLR Magic 35mm f/1.2 và Samyang 35mm f/1.4, chúng ta có thể nhận thấy mức độ mịn của bokeh khác nhau khá rõ. Việc phân tích lỗi cầu sai này có thể không quan trọng lắm với phần lớn người dùng, nhưng sẽ bổ ích cho chúng ta hiểu về cách thiết kế ống kính của các hãng và lý do đằng sau mức độ mịn của bokeh.


2.12. Đặc điểm tia / hiệu ứng sao

Hiệu ứng tia là một yếu tố quan trọng mà phần lớn người dùng chụp cảnh sẽ quan tâm. Với vòng khẩu 13 lá của các ống SLR Magic, chúng sẽ đều tạo hiệu ứng sao 26 tia khi khép khẩu. Các tia này khá sắc và đều, nhưng số lượng lớn lá khẩu này có thể sẽ không được nhiều người đánh giá cao vì nó khó nhận ra ở kích thước nhỏ. Riêng với 2 ống kính Samyang thì với vòng khẩu 8 lá tròn, tia của hai ống kính này đều đẹp với 8 cạnh sắc và rất đều đặn. Thêm nữa là hai ống kính Samyang có thể tạo tia dễ dàng từ khẩu độ f/5.6 và càng khép sâu càng đẹp hơn. Nếu là người thích chơi tia thì hai ống kính Samyang là lựa chọn tốt hơn SLR Magic (mặc dù với mình thì sao 26 cánh mà đều cũng là chấp nhận được rồi).

2.13. Mức độ "thở" (breathing) của ống kính

Là ống kính cine thì mức độ kiểm soát hiện tượng "thở" (breathing) của ống kính cũng khá quan trọng. Đây là hiện tượng ống kính bị thay đổi góc nhìn (hay tương đương với thay đổi tiêu cự) khi thay đổi vị trí điểm lấy nét, và thường thì khi lấy nét gần góc nhìn sẽ bị hẹp đi, hay giống như hiệu ứng zoom. Trong quay phim, hiện tượng này sẽ làm khung hình bị thay đổi khi thay đổi điểm lấy nét nên ống kính "thở" ít sẽ phù hợp hơn. Bằng việc so sánh tỷ lệ khung hình thay đổi giữa lúc lấy nét về vô cực và lấy nét tại điểm gần nhất (MFD), mình có thể xác định khung hình bị "giãn" ra bao nhiêu. Kết quả như sau:

  • SLR Magic 35mm f/1.2: 87%
  • Samyang 35mm f/1.4: 87%
  • SLR Magic 75mm f/1.4: 93%
  • Samyang 85mm f/1.4: 86%

Như vậy hai ống kính 35mm và Samyang 85mm đều có mức "thở" nặng tương đương nhau, nhưng riêng ống SLR Magic 75mm f/1.4 có mức độ "thở" khá thấp, nhất là khi bạn thay đổi hai vị trí lấy nét gần nhau thì sẽ khó thấy khung hình bị thay đổi hơn. Chính vì vậy, 75mm f/1.4 là ống kính tốt nhất theo tiêu chí này.

2.14. Khả năng chữa coma

Với chụp ảnh sao, chụp ảnh thiên văn thì hiện tượng coma cũng rất đáng quan tâm. Hiện tượng này gây ra hiện tượng chi tiết ở góc và rìa hình bị kéo dịch đi tạo thành vệt dài nên không phù hợp với chụp thiên văn. Mình đã so sánh các đốm sáng nhỏ ở góc hình chụp bằng 4 ống kính để thấy mức độ chữa coma của từng ống kính như thế nào. Nhờ thiết kế DSLR và có nhiều thấu kính, hai ống kính Samyang thể hiện khả năng chữa coma tốt hơn hai ống kính SLR Magic. Đặc biệt, ống SLR Magic 75mm f/1.4 có khả năng chữa coma rất kém (có thể do khả năng phân giải chi tiết ở góc kém của ống này) và phải hạ khẩu xuống f/8-f/11 thì chi tiết ở góc mới không tạo thành vệt nữa. SLR Magic 35mm f/1.2 bị coma khá nặng ở khẩu độ lớn nhất, tuy nhiên tại f/2 hay f/2.8 trở đi, chúng ta hoàn toàn có thể dùng ống kính này để chụp sao. Samyang 35mm f/1.4 nhỉnh hơn SLR Magic 35mm f/1.2 một chút, còn Samyang 85mm f/1.4 thì có mức chữa coma rất tốt ngay từ khẩu f/1.4. Như vậy Samyang 85mm f/1.4 là ống kính tốt nhất để chữa coma (nhưng do tiêu cự dài, có thể không nhiều người muốn dùng ống này để chụp thiên văn).

2.15. Khả năng sử dụng để quay phim

Rất tiếc là mình không có kinh nghiệm quay phim nên không thể đánh giá chính xác khả năng sử dụng các ống kính này với hệ thống quay phim. Tuy nhiên theo những gì mình được biết và qua trao đổi e-mail với Andrew Chan (giám đốc điều hành và phát triển sản phẩm của SLR Magic), có một số điểm quan trọng sau đây được nhấn mạnh trong thiết kế của các ống SLR Magic thuộc series này:
Các ống kính này có kích thước và khối lượng rất đồng đều nhau (như ở phần đầu bài các bạn thấy) và đây là đặc điểm quan trọng nhất của loạt ống kính này bên cạnh kích thước nhỏ. Để phục vụ quay phim, các ống kính có thể dùng với bộ follow focus với vòng bánh răng khớp với vòng chỉnh nét. Với vị trí các vòng lấy nét và vòng khẩu giống hệt nhau như thế này thì khi người dùng thay ống kính, họ sẽ không phải cố định lại vị trí vòng khớp trên bộ follow focus nữa. Ngoài ra, với khối lượng bằng nhau, khi sử dụng gimbal và cần thay đổi ống kính thì người dùng không phải cân bằng lại hệ thống nữa. Nếu khối lượng các ống khác nhau thì mỗi lần thay ống, bạn sẽ phải điều chỉnh lại vị trí của máy ảnh trên gimbal để nó không ngửa ra đằng sau. Với khối lượng nhỏ, gimbal gắn các ống kính này cũng không bị chúc về phía trước nên việc cân bằng rất dễ dàng.
Đây là đặc tính không dễ dàng có thể thiết kế được với độ đồng đều cao giữa các ống kính tiêu cự khác nhau thế này nên có thể nói đây là một thành công lớn của SLR Magic và rất có giá trị với ngành quay phim.

3. ẢNH CHỤP MẪU

Ảnh mẫu rất quan trọng để đánh giá khả năng của ống kính trong các điều kiện chụp khác nhau. Các bạn lưu ý là tất cả ảnh đều đã được xử lý màu hậu kỳ (tuy nhiên mình không tăng độ nét hình). Các bạn có thể xem các hình ở trên để biết đặc tính ống kính khi ảnh chưa được xử lý. Để xem hình chất lượng cao, mời các bạn xem hình trên album của mình trên Flickr: SLR Magic 35mm f/1.2 SLR Magic 75mm f/1.4 . Có một điểm lưu ý là ảnh trên trang web của Vsion có màu nhạt hơn khá rõ trên các trang web khác hay Flickr nên các bạn nên xem ảnh lớn ở Flickr để có nhận xét chính xác hơn.

4. KẾT LUẬN

Cho tới nay, mình đã được sử dụng qua 3 ống kính trong series 4 ống kính full frame ngàm E của SLR Magic: 25mm f/1.4, 35mm f/1.2 và 75mm f/1.4 CINE. Các ống kính này đều đã vượt lên cả trông đợi của mình với chất lượng tốt ở nhiều tiêu chí như độ nét, độ méo hình, khả năng kiểm soát sắc sai và chống lóa. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất là thiết kế nhỏ gọn để phù hợp với hệ thống ngàm E và mức giá không cao của các ống kính này. So với các ống kính dạng DSLR của Samyang, bạn sẽ không phải lo nghĩ đến chuyện ngàm chuyển hay các vấn đề liên quan tới độ chính xác của ngàm chuyển nữa, và có thể mang nhiều ống kính cùng lúc với kích thước này. Là các ống kính cine, đối tượng khách hàng chính của SLR Magic chính là người dùng quay phim, nhất là phục vụ các dự án có giới hạn tài chính. Kết quả của việc lắng nghe phản hồi và nhu cầu của người làm trong ngành trong một thời gian dài, hãng đã có thể tạo ra một nhóm ống kính rất phù hợp cho nhu cầu quay phim. Theo lời Andrew Chan, việc thuận tiện khi đổi ống kính sẽ làm tiết kiệm thời gian, mà thời gian là tiền bạc trong các dự án quay phim (tiền thuê diễn viên và thiết bị theo giờ) nên những nỗ lực này của hãng thực ra rất có ý nghĩa.

Xét về mục đích sử dụng các ống kính này trong nhiếp ảnh, mình thấy đây là những ống kính hoàn toàn phù hợp, và yếu tố thuận lợi về mặt kích cỡ cũng quan trọng với người chụp ảnh để có thể chụp được nhiều hơn do dễ mang đi mang lại hơn, và nó cũng đồng nghĩa với việc bạn tích lũy được nhiều kinh nghiệm hơn và có khả năng chụp được những tấm ảnh lúc trước có thể bạn sẽ không có điều kiện chụp. Nói về chi tiết, ống kính 25mm và ống kính 35mm trong series này thực sự có tính cạnh tranh cao với các sản phẩm tương đương của Samayng hay các hãng sản xuất ống kính lấy nét tay khác. Với mức tiền chỉ nhỉnh hơn một chút (SLR Magic 35mm đắt hơn bản cine của Samyang 35mm chỉ có $50), thậm chí rẻ hơn (SLR Magic 25mm rẻ hơn Samyang 24mm bản cine $200), bạn có một ống kính nhỏ gọn hơn hẳn, thiết kế chắc chắn hơn, độ nét cao hơn khi hạ khẩu xuống một chút), độ méo hình thấp, bokeh tròn ở mọi khẩu độ và khả năng chống flare tốt hơn hẳn. Riêng trường hợp của SLR Magic 75mm f/1.4, lợi thế khi chụp ảnh với ống kính này khi so với Samyang 85mm f/1.4 không nhiều bằng chênh lệch của hai cặp ống kính góc rộng do mức giá của SLR Magic 75mm cao hơn Samyang $200, trong đó độ nét rìa kém hơn khá rõ. Tuy nhiên, nếu các bạn đang sử dụng 2 ống kính wide của SLR Magic cho quay phim thì ống kính 75mm lại phù hợp hơn Samyang do độ tương đồng về kích thước, hình dạng, mức méo hình thấp, mức phóng đại cao hơn và đặc biệt là bị "thở" ít hơn đáng kể. Nếu bạn sử dụng các ống kính này với máy ảnh APS-C thì khác biệt thua kém so với Samyang (chủ yếu ở phần rìa ảnh) sẽ được loại bỏ và bạn sẽ thấy các ống kính này còn giá trị hơn.

Một điểm nữa khiến mình thích các sản phẩm của SLR Magic hơn, đó là độ chắc chắn của ống kính. Mình đã dùng khá nhiều ống kính Samyang, từ 24mm tới 135mm, trong đó có 1 ống kính bị rơi lá khẩu ngay khi nhận về, một ống kính bị mất khả năng chụp tới vô cực do va chạm và ống TS 24mm bị hở sáng khi shift. Với SLR Magic, mình mới bị vấn đề decentering mà khả năng cao là do khâu vận chuyển không đảm bảo, còn ngoài ra thì ngay khi cầm vào ống kính hoàn toàn làm bằng kim loại và cực kỳ nhỏ gọn, bạn sẽ dễ dàng thấy là nó tốt hơn ống kính plastic kích thước lớn và dễ có tiếng lạo xạo khi lắc. Mặc dù còn sớm để kết luận về độ bền của SLR Magic nhưng mình có thể thấy tin tưởng hơn.

Với những thông tin này, mình hy vọng là các bạn sẽ có hứng thú với các sản phẩm của SLR Magic và có quyết định phù hợp khi phải cân nhắc chuyện chọn mua thiết bị nào.


Video tham khảo
Dr. Fox
Bài đánh giá do Dr. Fox thực hiện
Nghiêm cấm sử dụng trên các website hay ấn phẩm khác
Các bạn có thể gắn thẻ page của Vsion trên facebook để các admin có thể biết các bạn đã comment (bằng cách gõ thêm @vsion.vn)
Bài viết mới
Tamron 28-75mm vs Sigma Art FE 24-70mm vs. Sony FE 24-70mm GM
By Dr. Fox 15 Jan, 2020
So sánh 3 lens tiêu cự trung bình của hệ ngàm Sony FE: Tamron FE 28-75mm f/2.8, Sigma Art FE 24-70mm f/2.8, Sony FE 24-70mm f/2.8 GM.
Đánh giá Fuji X-Pro3 - Nguồn cảm hứng tuyệt vời
By N.Đ.Phan 04 Jan, 2020
Với X-Pro3, Fujifilm đã thực sự tạo ra một chiếc máy đầu bảng, một chiếc máy flagship mới của hãng để hoàn thiện cái triết lý của mình, một triết lý có phần bảo thủ, nhưng đúng với tư duy, con đường và chiến lược của Fujifilm từ trước đến nay.
By N.Đ.Phan 13 Jun, 2019
Đánh giá nhanh chiếc máy Ricoh GR III, ông vua của nhiếp ảnh đường phố
By Dr. Fox 17 May, 2019
Phân tích những thay đổi về đặc điểm và chất lượng ảnh khi upload lên Facebook để tìm ra phương pháp tối ưu
Share by: